Hiện nhiều thuốc kháng virus được sử dụng cho người mắc Covid-19. Nhưng thế giới chưa có thuốc nào được công nhận về hiệu quả.
Vừa qua, Viện Hoá học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tổng hợp thành công thuốc Favipiravir trong phòng thí nghiệm. Các nhà khoa học Việt Nam đã rút ngắn quy trình tổng hợp còn 3 bước thay vì 7-8 bước như nhiều nước.
Việt Nam chưa sử dụng trong điều trị Covid-19
Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Hồng Hà, Phó chủ tịch Hội truyền nhiễm Việt Nam, nhận định việc các nhà khoa học trong nước tổng hợp thành công Favipiravir là một tín hiệu rất đáng mừng, khẳng định năng lực nghiên cứu của Việt Nam. Song để đánh giá mức độ an toàn, hiệu quả của thuốc này, chúng ta phải thử nghiệm lâm sàng trên số lượng mẫu lớn, có so sánh mù đôi.
Phó giáo sư, tiến sĩ Ngô Quốc Anh, Phó viện trưởng Viện Hoá học, cho biết thời gian tới, đơn vị này tiếp tục hoàn thiện và nâng cao quy trình tổng hợp, lập hồ sơ đăng ký thử nghiệm lâm sàng, tiến tới xin được cấp phép sử dụng thuốc Favipiravir tại Việt Nam.
Theo ông Quốc Anh, trong bối cảnh đại dịch phức tạp, chiến lược vaccine vẫn là quan trọng nhất. Việc có thuốc Favipiravir sẽ đưa thêm một lựa chọn trong điều trị.
Về việc nghiên cứu thuốc điều trị Covid-19 trên thế giới cũng như tại Việt Nam, bác sĩ Hồng Hà chia sẻ hiện có nhiều thuốc kháng virus được sử dụng cho người nhiễm nCoV. Nhưng thế giới chưa có thuốc nào được công nhận về hiệu quả. Các thuốc kháng virus có mục tiêu ngăn cản hậu quả tổn thương, làm giảm bệnh, không phải để ngăn cản virus.
"Chẳng hạn Mỹ dùng Remdesivir trong phác đồ, kết quả giúp giảm một vài triệu chứng so với nhóm không điều trị. Nhưng cũng chỉ giảm nhẹ, trong khi chi phí điều trị cao nên không có ý nghĩa nhiều", bác sĩ Hà nói.
Theo chuyên gia này, Việt Nam chưa sử dụng Favipiravir hay Remdesivir trong phác đồ điều trị bệnh nhân Covid-19. Trong lần cập nhật mới nhất (phiên bản 5) vào cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Y tế khẳng định đã có nhiều thuốc kháng virus được thử nghiệm nhưng chưa có hiệu quả rõ ràng nên không khuyến cáo áp dụng.
Phân loại bệnh nhân để điều trị
Bác sĩ Hà cho biết làn sóng dịch lần 4 tại nước ta xuất hiện biến chủng Delta (biến chủng được ghi nhận lần đầu tại Ấn Độ) song phác đồ điều trị gần như không thay đổi.
Là thành viên Tổ hội chẩn các ca bệnh Covid-19 nặng, Phó chủ tịch Hội truyền nhiễm Việt Nam nhận định: “Biến chủng Delta chủ yếu lây lan nhanh, tác động khiến bệnh cảnh nặng lên chưa rõ ràng lắm. Tỷ lệ bệnh nhân nặng vẫn không cao lắm nên trong điều trị, khâu tổ chức vẫn là chính, bao gồm tổ chức chống dịch, phân loại, sàng lọc bệnh nhân để bác sĩ theo dõi sát. Trường hợp nào có diễn biến xấu, phải can thiệp ngay. Đây là mới là cách hạn chế tăng bệnh nặng và tử vong”.
Theo bác sĩ Hà, dù tỷ lệ nặng không thay đổi, người mắc Covid-19 tăng sẽ khiến số lượng bệnh nhân nặng cao hơn. Chỉ tính riêng làn sóng thứ 4, Việt Nam đã ghi nhận hơn 14.000 ca mắc, gấp hơn 4 lần so với tổng 3 đợt dịch trước.
“Nếu bệnh nhân nặng đông lên, chúng ta sẽ gặp những ca trẻ nhưng thể nặng. Đó là phản ứng của cơ thể với virus. Khi rơi vào người già, bệnh nền, ung thư, việc điều trị rất khó khăn”, bác sĩ Hà chia sẻ.
Theo thống kê của Bộ Y tế, biến chủng Delta khiến tỷ lệ bệnh nhân không triệu chứng giảm xuống còn khoảng 44% (trước đây là 80%). Song số bệnh nhân có thể diễn tiến nặng vẫn chỉ khoảng 20%. Các chiến lược điều trị tập trung vào nhóm này. Trong số này, 10% có thể diễn biến từ biểu hiện ho, sốt, khó thở sang cấp cứu; 5% diễn biến chuyển thành nặng và 5% thành rất nặng.
Bác sĩ Hà cho biết trước đây Việt Nam từng đồng ý sử dụng huyết tương của người đã khỏi Covid-19 để điều trị cho các bệnh nhân nặng. Tuy nhiên, thế giới đã áp dụng nhiều. Tại Mỹ, vài nghìn ca đã được điều trị theo phương pháp này nhưng hiệu quả không đáng kể.